Bình vôi (Stephania sp.)
30/07/2023
Tên khoa học: Stephania sp.
Họ: Tiết dê (Menispermaceae).
Tên khác: Đòi bao vằng (Dao)
Mô tả: Cây thân thảo dạng dây leo, thường xanh, cao tới 4 m, với thân củ dạng gỗ phình to, trong dân gian gọi là củ. Các lá mọc thành vòng xoắn trên thân cây, hình khiên với cuống lá gắn gần trung tâm của lá. Cụm hoa mọc thành xim tán ở kẽ lá hoặc những cành già đã rụng lá. Hoa nhỏ, khác gốc; hoa đực có 5 – 6 lá đài, 3 – 4 cánh hoa màu vàng cam, nhị 3 – 6, thường là 4; hoa cái có 1 lá đài, 2 cánh hoa, bầu hinh trứng. Quả hạch, hình cầu dẹt, khi chín màu đỏ, chứa một hạt, hình móng ngựa, có gai.
Mùa hoa quả: Mùa hoa tháng 4 – 6, mùa quả tháng 8 – 10.
Phân bố: Mọc ở những vùng có núi đá tại các tỉnh Hà Tây, Hòa Bình, Hà Giang, Lào Cai, Tuyên Quang, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hóa,…
Bộ phận dùng: Rễ củ.
Thành phần hóa học: Rễ cây có chứa alkaloid (có thể chứa một số chất như L – tetrahydropalmatin (rotundin), stepharin, roemerin, cycleanin, cepharanthin,…). Ngoài ra, còn có tinh bột, đường khử.
Công dụng: Ngâm rượu chữa hen, ho lao, lỵ, sốt, đau bụng. Dùng bình vôi có thể cải thiện tốt các triệu chứng đau đầu, mất ngủ, ho có đờm, ho khan các bệnh về tiêu hoá. Kết hợp với một số dược liệu khác còn đem đến kết quả trong điều trị một số bệnh như gout, cao huyết áp, lở loét. Ngoài ra, củ Bình vôi còn được dùng chữa đau dạ dày, đau răng, viêm ruột, viêm họng, mụn nhọt. Dùng ngoài, củ tươi giã nát đắp tại chỗ chữa vết thương.
Cách dùng: Ngày dùng từ 6 g đến 12 g, dạng thuốc sắc, thuốc bột hoặc rượu thuốc.
Tri thức sử dụng của dân tộc: Theo kinh nghiệm của nhân dân ta, Bình vôi chữa mất ngủ, ho hen, kiết lỵ, sốt, đau bụng, dùng dưới dạng củ thái nhỏ phơi khô sắc nước uống hoặc dạng bột, ngâm rựu hay chè thuốc.